Đến đất nước hoa anh đào, du học sinh có thể lựa chọn các chương trình cao học, đại học, cao đẳng, trường kỹ thuật nghiệp vụ và trường trung học chuyên nghiệp. Ở Nhật Bản, đa số các trường đại học, cao đẳng và cao học đều là dân lập, còn các trường trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật nghiệp vụ là của quốc gia hoặc thuộc hệ thống công lập.
Ngoài việc tổ chức kỳ thi tuyển, nhiều trường đại học ở Nhật có chế độ xét tuyển đặc biệt dành cho du học sinh. Một số nơi chọn sinh viên căn cứ theo điểm kiểm tra năng lực tiếng Nhật và kỳ thi dành cho du học sinh tự túc nước ngoài. Kỳ thi này do Hiệp hội Giáo dục Quốc tế Nhật Bản tổ chức. Ngành nhân văn thi Toán, Sử thế giới, Anh văn; ngành khoa học thi Toán và 2 trong 3 môn Lý, Hóa, Sinh.
Những người muốn tham dự các chương trình cao học chính quy phải qua kỳ thi tuyển. Thí sinh sẽ làm bài kiểm tra viết các môn như tiếng Nhật hoặc tiếng Anh, chuyên môn và thi vấn đáp. Đối với nghiên cứu sinh thì phần lớn chỉ xét hồ sơ là cho nhập học.
Để vào học cao đẳng thì phải đậu kỳ thi đầu vào do nhà trường tổ chức. Thi tuyển vào trường trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật nghiệp vụ được tổ chức bằng cách kết hợp như xét hồ sơ, phỏng vấn, thi tiếng Nhật, môn học, làm bài luận, kiểm tra kỹ năng, năng khiếu.
Có những loại học bổng nào?
Người đi học có thể xin học bổng bằng cách nộp đơn trước hoặc sau khi đến Nhật. Học bổng xin trước thường là của chính phủ nước này, cấp cho 6 đối tượng du học sinh: nghiên cứu, nghiên cứu giảng dạy, học ở trường đại học, trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật nghiệp vụ, tìm hiểu tiếng Nhật, văn hóa Nhật. Tiền trợ cấp mỗi tháng cho du học sinh nghiên cứu là 185.000 yen. Những học bổng khác là 142.000 yen. Ngoài ra, còn có suất cho du học sinh ngắn hạn được tiếp nhận từ hiệp định giao lưu giữa đại học của Nhật và các nước.
Du học sinh cũng có thể xin được học bổng của Bộ Giáo dục Nhật Bản, các cơ quan tự trị địa phương, đoàn thể tư nhân, nhà trường và tiền khuyến học Người muốn được trợ cấp thường phải qua kiểm tra xét hồ sơ, thi viết về kiến thức phổ thông hay chuyên môn, ngoại ngữ, phỏng vấn.
Để du học Nhật , học sinh phải học tiếng Nhật từ 1,5 năm đến 2 năm mới có thể thi vào trường đại học. Sau đó, để thi vào ĐH, cao đẳng, thí sinh thường phải thi đậu kỳ thi nhập học do trường tổ chức, cũng có một số ít trường có chế độ xét tuyển đặc biệt dành cho du học sinh.
Riêng nghiên cứu sinh, phần lớn chỉ xét hồ sơ là cho nhập học (trước khi nộp đơn phải tìm giáo sư nhận hướng dẫn). Còn cao đẳng, trường kỹ thuật - chuyên nghiệp thì tổ chức thi tuyển hoặc xét hồ sơ căn cứ trên kết quả thi tiếng Nhật, thi môn học... Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, nếu hội đủ điều kiện Bộ GD&ĐT quy định có thể học lên ĐH.
Thời gian các hệ học
Đại học: Sinh viên chính thức học 4 năm, nhưng học ngành y, nha, thú y học 6 năm. Sinh viên dự thính học một môn học đặc thù nào đó; điều kiện nhập học và số môn học được chấp nhận do dự thính tùy theo mỗi trường.
Sau đại học: Chương trình master học 2 năm và chương trình tiến sĩ (doctor) học 5 năm. Chương trình tiến sĩ phần lớn chia thành: Chương trình tiền kỳ tương đương với master (2 năm), và chương trình hậu kỳ (3 năm). Chương trình học lấy tiến sĩ của y, nha khoa và thú y là 4 năm. Tùy theo trường ĐH, thời gian quy định học lấy tiến sĩ có thể khác nhau.
Cao đẳng: Học 2 năm, nhưng có khoa như điều dưỡng học 3 năm. Trường kỹ thuật - nghiệp vụ: là trường dạy nghề, học từ 1 đến 3 năm (nhưng phần lớn học 2 năm). Trường trung học chuyên nghiệp: dạy nghề 5 năm (có môn học lâu hơn), dành cho đối tượng là học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở.
Để tốt nghiệp ĐH trong 4 năm, sinh viên thường phải lấy được trên 124 môn học; thời gian 6 năm, sinh viên ngành y, nha khoa phải có trên 188 môn học, ngành thú y phải có trên 182 môn học. Về cao học (trên 2 năm), sinh viên cần có trên 30 môn học. Đối với cao đẳng, học 2 năm trở lên, cần có trên 62 môn học; nếu học 3 năm, cần có trên 92 môn học. Còn tốt nghiệp trường kỹ thuật thì thông qua kết quả kỳ thi cuối khóa, thi cuối năm học của trường.
Có 2 cách xin học bổng: Nộp đơn ở nước ngoài trước khi đến Nhật và nộp đơn sau khi đến Nhật. Hầu hết đối tượng nhận học bổng là sinh viên ĐH, nhà nghiên cứu. ít có loại học bổng nào cấp toàn bộ kinh phí cho việc du học, phần lớn chỉ trợ cấp sinh hoạt phí, một phần tiền học nên người dự thi đi du học phải tính kỹ mọi phí tổn, chứ không thể chỉ dựa vào học bổng.
Hồ sơ
Hồ sơ để vào học tại cơ sở dạy tiếng Nhật gồm: đơn xin nhập học, lý lịch, giấy chứng nhận tốt nghiệp THPT, thành tích biểu của bậc THPT, giấy giới thiệu của hiệu trưởng hay thày cô phụ trách, phiếu khám sức khỏe, giấy bảo lãnh, giấy chứng nhận người nước ngoài đã đăng ký (nếu sống ở Nhật), ảnh.
Một năm trung bình có đến 1 500 cơn địa chấn trên một khu vực gồm 4 hòn đảo chinh là Honshu, Shikoku, Hokkaido, Kyushu với tổng diện tích vào khoảng 377 853 km2, 126 triệu người dân Nhật Bản sinh sống tại một khu vực được coi là vành đai lửa của khu vực Địa Trung Hải.
Với vị trí địa lý kéo dài đến 3 000 km từ phía bán đảo Triều Tiên ngược lên phía Bắc, khí hậu Nhật Bản rất khác nhau, phía Nam có khí hậu lạnh ôn đới.
Năm 1983 kế hoạch đề xuất là 100 000 sinh viên nước ngoài đến Nhật học tập, tính đến nay sau gần hai thập niên số lượng sinh viên quốc tế tại Nhật Bản mới đạt khoảng 5 000 sinh viên.
Tại sao sau hai thập niên, số lượng sinh viên quốc tế theo học tại Nhật Bản chỉ là 5 000 người?
Giáo dục tại Nhật Bản luôn được coi là một nơi lý tưởng cho những sinh viên muốn đi du học nước ngoài. Tuy vậy để có thể theo học tại Nhật Bản, học sinh sinh viên quốc tế cần phải biết tiếng Nhật vốn được coi là một ngoại ngữ khó. Thêm vào đó chi phí ăn học hiện nay tại Nhật Bản là rất đắt đỏ. Để theo học chỉ một khoá học ngoại ngữ 6 tháng trung bình tốn khoảng 5514 đôla Mỹ tiền học phí trở lên.
Chỉ xét riêng số sinh viên Việt Nam đang theo học tại Nhật Bản tính đến thơi điểm hiện nay, ngoài số sinh viên đi học theo học bổng của chính phủ, hoặc xin được các học bổng của trường hoặc các tổ chức, số sinh viên đi học tự túc tại Nhật Bản hịên nay là rất ít và không đáng kể.
Để khuyến khích thêm lượng sinh viên quốc tế theo học tại Nhật Bản trong thời gian tới và để có thể đạt con số 100.000 sinh viên có lẽ sẽ phải tốn nhiều thời gian và công sức của Chính phủ Nhật Bản.
Về giáo dục trong các trường Đại học, vấn đề nghiên cứu được chú trọng trong tất cả các lĩnh vực, từ cơ khí điện tử tới quản lý quốc tế.
Nhật Bản - đất nước mà truyền thống cổ xưa kết hợp với công nghệ hiện đại đang cố gắng tạo ra một môi trường học tập.
Mô hình hệ thống giáo dục 6-3-3-4
Chưa kể đến loại hình giáo dục "tiểu học đường" và các chương trình giáo dục sau đại học, hệ thống giáo dục của Nhật Bản được gọi là "hệ thống 6-3-3-4" trong đó bao gồm 6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở (cấp II, 3 năm trung học (cấp III) và 4 đại học. Trong hệ thống này, chương trình học trong 9 năm đầu (6 năm tiểu học và 3 năm trung học cơ sở) được coi là chương trình học trong 9 năm đầu (6 năm học tiểu học và năm trung học cơ sở) được coi là chương trinh giáo dục bắt buộc đối với trẻ em Nhật Bản.
Nhật Bản có 3 loại trường: thứ nhất là trường đại học, thời gian 4 năm, tuy nhiên đối với những ngành học như ngành y, thời gian có thể kéo dài hơn 6 năm; thứ hai là trường cao đẳng, loại hình này để phục vụ những học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, có kế hoạch học tập các ngành khoa học, nghệ thuật trong vòng từ 2 đến 3 năm; thứ 3 là kỹ thuật dạy nghề. Loại hình này nhằm phục vụ cho những học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở. Thời gian học nghề thường là 5 năm đối với các ngành như cơ khí, kỹ thuật hàng hải. Sau khi tốt nghiệp các trường dạy nghề, học sinh có nguyện vọng sẽ có thể nộp đơn vào học tập ở bậc học nghề cao hơn tại một số trường đại học chuyên ngành.
Để đáp ứng nhu cầu học ở bậc đại học ngày càng tăng, kể từ sau những năm 50, Nhật Bản đã hình thành loại hình đại học dân lập. Tuy nhiên, từ những năm 1970 trở lại đây, Nhật Bản đã có những chính sách cụ thể để hạn chế sự cạnh tranh hỗn loạn của loại hình trường đại học dân lập này, đảm bảo chất lượng của sinh viên đại học khi ra trường xét trên tổng thể.
Cải cách giáo dục và xu hướng giáo dục hiên đại
Các cuộc cải cách giáo dục ở Nhật Bản nhằm vào các mục tiêu: Tăng tầm quan trọng đặc biệt việc phát triển của từng cá nhân;
Chuyển sang hệ thống giáo dục học tập suốt đời; tạo sự cân bằng giữa các kiến thức truyền thống với các kiến thức công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết hiện nay tại Nhật Bản phục vụ xu hướng quốc tế xã hội và thời đại thông tin.
Trong hệ thống giáo dục ở Nhật Bản, vai trò của gia đình, đặc biệt là người mẹ rất quan trọng đối với trẻ em. Thông thường, phụ nữ Nhật Bản có xu hướng trở thành các bà nội trợ chuyên nghiệp sau khi lập gia đình, trong đó dạy dỗ và chăm sóc con cái là một trong những nhiệm vụ chính. Trên cơ sở đó, kiểu giáo dục này đòi hỏi người mẹ phải có trình độ học vấn cao để có thể giúp con họ có thể vượt qua được chương trình giáo dục khắc nghiệt ở đây. Vì vậy, với những người phụ nữ có trình độ học vấn cao, khi lấy chồng họ vẫn hoàn toàn có cơ hội để sử dụng tốt các kiến thức đã học để dạy dỗ con cái thay vì thuê gia sư hoặc đến trường học thêm.
Với xu hướng cải cách giáo dục hiện đại hiện nay (kể từ năm 1971), Nhật Bản hy vọng sẽ lại một lần nữa tạo nên những điều thần kỳ mới trong quá trình phát triển trong tương lai không xa.